Việc mua bán nhà bị tòa tuyên vô hiệu?
Hỏi: Năm 2009 tôi có mua một mảnh đất (chuyển quyền sở hữu vốn góp), do là đất dự án nên chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (theo quy định của dự án, sau khi xây nhà xong mới được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất).
Việc mua bán chỉ có giấy viết tay và có người làm chứng là ông tổ trưởng tổ dân phố chứ không có công chứng hoặc xác nhận của UBND phường. Có giấy ủy quyền của người bán cho tôi được làm các giấy tờ, thủ tục liên quan đến mảnh đất, được công chứng viên chứng thực. Kèm theo phiếu thu nộp tiền cho ban quản lý dự án (bản gốc). Nay tôi ra ban quản lý dự án xin phép làm nhà trên mảnh đất đó thì ban quản lý dự án cho biết mảnh đất tôi mua hiện đang có quyết định của cơ quan thi hành án thành phố không cho xây nhà hoặc chuyển nhượng cho người khác. Xin luật sư vui lòng tư vấn giúp tôi:
Vì là đất dự án nên chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên việc mua bán chỉ có giấy viết tay, kèm theo giấy ủy quyền như vậy có giá trị pháp lý gì không? Lô đất tôi mua tháng 11/2009 nhưng quyết định của cơ quan thi hành án ký ngày 21/6/2011 như vậy có đúng không?
Tôi có thể nộp đơn khởi kiện người bán ra tòa án dân sự được không? Nếu được thì thủ tục khởi kiện như thế nào? Nộp án phí ở đâu, thủ tục nộp thế nào? Nộp ngay khi khởi kiện hay chờ tòa án thụ lý hồ sơ xong mới nộp?
([email protected] )
Trả lời
Vì là đất dự án nên chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên việc mua bán chỉ có giấy viết tay, kèm theo giấy ủy quyền như vậy có giá trị pháp lý gì không? Lô đất tôi mua tháng 11/2009 nhưng quyết định của cơ quan thi hành án ký ngày 21/6/2011 như vậy có đúng không?
Tôi có thể nộp đơn khởi kiện người bán ra tòa án dân sự được không? Nếu được thì thủ tục khởi kiện như thế nào? Nộp án phí ở đâu, thủ tục nộp thế nào? Nộp ngay khi khởi kiện hay chờ tòa án thụ lý hồ sơ xong mới nộp?
([email protected] )
Trả lời
Theo quy định tại Điều 106, Luật đất đai 2003 được sửa đổi bổ sung năm 2009 thì người sử dụng đất chỉ được chuyển nhượng quyền sử dụng đất khi có đầy đủ các điều kiện sau đây:
- Có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất;
- Đất không có tranh chấp;
- Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án;
- Trong thời hạn sử dụng đất.
Hơn nữa, theo quy định tại Điểm b, Khoản 1, Điều 119 Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29-10-2004 của Chính phủ về thi hành Luật đất đai (đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27-1-2006) thì hợp đồng hoặc giấy tờ khi người sử dụng đất thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải có chứng nhận của công chứng nhà nước hoặc chứng thực của UBND xã, phường, thị trấn.
Như vậy, việc nhận chuyển nhượng đất của bạn được thực hiện khi chính người chuyển nhượng cũng không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là đã vi phạm Điều 106 Luật đất đai. Hơn nữa, hợp đồng chuyển nhượng đất lại không được công chứng hoặc chứng thực theo như quy định dẫn chiếu ở trên là vi phạm về mặt hình thức khi thực hiện giao dịch.
Cần nói thêm, việc bạn có giấy ủy quyền của người bán để bạn làm các giấy tờ, thủ tục liên quan đến mảnh đất, được công chứng viên chứng thực và kèm theo phiếu thu nộp tiền cho ban quản lý dự án (bản gốc) là không có giá trị gì về mặt pháp lý vì giao dịch chuyển nhượng của bạn ngay từ đầu đã không hợp pháp. Chính vì việc mua bán của bạn không được pháp luật công nhận nên quyết định của cơ quan thi hành án ký ngày 21-6-2011 đối với diện tích đó là đúng với quy định của pháp luật.
Từ những dẫn chiếu trên có thể thấy giao dịch chuyển nhượng đất của bạn sẽ bị tòa án tuyên vô hiệu khi các bên có tranh chấp. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu là khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường.
Bạn có thể làm đơn kiện kèm theo tài liệu liên quan lên tòa án có thẩm quyền (có thể là tòa án nơi có bất động sản), yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu. Sau khi tòa án nhận đơn thì trong 5 ngày làm việc tòa án sẽ tiến hành thụ lý vụ việc (nếu thuộc thẩm quyền của tòa án) và tòa án sẽ thông báo cho bạn về việc nộp tiền tạm ứng án phí. Tòa án sẽ thụ lý vụ án tính từ thời điểm bạn nộp biên lai nộp tiền tạm ứng án phí.
Trân trọng,
Luật sư Lê Thị Hoài Giang
- Quý khách tham khảo thêm các chuyên mục khác của X HOME:
CHIA SẺ & BÌNH LUẬN
Tweet