Trên những miền quên lãng
Nhiều người cho rằng cuộc cách mạng công nghệ thông tin và những tiến bộ khoa học cùng với cơn lốc toàn cầu hóa đang dần làm phẳng thế giới, đã khiến trái đất của chúng ta “bé lại thành một trái cam” như các nhà văn hậu lãng mạn giữa thế kỷ trước từng mô tả. Hầu như không một ngóc ngách nào của “ngôi nhà chung” lại không được con người đặt chân lên.
Khu lăng mộ tạc vào núi đá ở Persepolis
Ngay nếu như chỉ được nhắc tới, dù một lần trên truyền thông hay trong học đường, thì một miền đất nào đó không thể bị bỏ quên được. Vì vậy khái niệm “miền quên lãng di sản” phải được hiểu theo những nghĩa ngoa dụ nhất của từ này: Hoặc di sản ấy không còn vẻ oai nghiêm và lộng lẫy như trước, hay nói cách khác, không còn “hot” như trước; hoặc thuộc một đất nước đang cách biệt với thế giới, chủ yếu vì những khác biệt chính trị hoặc cấm vận kinh tế; Hoặc đã và sắp có nguy cơ bị thiên tai tàn phá. Đây thuộc về tầng quên lãng thứ nhất.
Tầng quên lãng thứ hai chính là thái độ của chính quyền và người dân đối với một kỷ vật của quá khứ. Những tượng Phật bị hủy ở Bamiyan, Afghanistan hay bị chặt đầu ở Ayutthaya, Thái Lan chỉ là những điển hình cực đoan của các cuộc xung đột tôn giáo. Có những di tích ngay trước mắt ta nhưng vẫn bị quên đi, chỉ bất ngờ được nhớ đến khi chuyện đã rồi. Xa thì có những tòa nhà cổ mấy trăm năm ở Sana’a tận bên Yemen đang bị giật đổ vì thiếu tiền trùng tu, gần thì có Chùa Trăm Gian hay Ô Quan Chưởng đã biến mất rất "nhẹ nhàng". Những thờ ơ vô tình tích tụ ngày này qua ngày khác có thể trở thành sự rũ bỏ cố ý. Song tôi tin rằng không nơi chốn nào mãi mãi rơi vào tầng quên lãng thứ ba – biến mất hoàn toàn cả trên mặt đất lẫn trong trí nhớ. Đã là của báu lịch sử, chúng sẽ một ngày nào đó hấp dẫn trở lại. Dù hoang tàn, vắng bóng du khách, dù không còn giá trị trong thế giới hiện đại, thì từ chỗ vẫn còn được nhắc đến, sẽ có thêm nhiều người đi đến, và sẽ tồn tại bằng cách này hay cách khác trong ký ức nhân loại.
Cột đá và tượng cũ ở Persepolis
Persepolis - Không có cả công chúa lẫn hành khất, những kẻ dụ rắn hay những gã si tình
Tháng 6/2013, tin vị giáo chủ ôn hòa Hassan Rowhani mới đắc cử tổng thống Iran và tuyên bố sẽ đưa nước này sang một kỷ nguyên mới, giao tiếp “xây dựng” với phần còn lại của thế giới, khiến tôi nhớ đến chuyến đi cách đây 5 năm tới thủ đô của một Iran đang bị cô lập. Sau một chặng bay đến Tehran, từng là cố đô của nền văn minh Ba Tư lừng lẫy, rồi một cuốc xe buýt đến Shiraz, tôi tìm cách tới thăm Persepolis (tiếng Ba Tư cổ là Parsa, hiện đại là Takht-e Jamshid hoặc Takht-i Jamshid – vương miện của nhân vật trong thần thoại Ba Tư "Jamshid"). Persepolis là cố đô của các vị vua thuộc triều đại Achaemenian, nằm khoảng 30 dặm (50km) về phía Đông Bắc của Shiraz, trong vùng Fars phía Tây Nam Iran. Kinh thành sầm uất gần nơi hợp lưu của sông Pulv-ar (S-ivand) và sông Kor giờ đây chỉ còn là một di chỉ hoang tàn, dù đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới ngay từ những đợt đầu tiên năm 1979. Không phải chỉ đến khi có những khủng hoảng chính trị sau cuộc cách mạng Iran cũng vào năm 1979, khiến việc đi đến nơi này trở nên mạo hiểm, mà cách đó cả hơn ngàn năm, Persepolis đã dần suy tàn sau những cuộc cướp bóc và hỏa hoạn trước và trong thời Alexander Đại đế thống trị. Tuy vậy tôi vẫn có tham vọng mơ hồ được thấy chút gì của một phiên chợ Ba Tư trên miền đất dần rơi vào quên lãng vì những cách biệt chính trị này.
Một người dân bản địa hiếm hoi
Sau khi đại lý du lịch lớn nhất ở đây từ chối tổ chức tour vì chỉ có 3 người đăng ký với giá 12 đô la Mỹ mỗi người, tôi cùng hai anh bạn mới quen, một người Đức một Ba Lan, rủ nhau lên xe buýt rời Shiraz để đi thăm cố đô thưa vắng khách. Iran đang bị phương Tây cô lập và những bất ổn sau cuộc cách mạng Hồi giáo năm 1979 có vẻ cũng ảnh hưởng rất nhiều đến lượng khách tới đây. Chúng tôi tự an ủi rằng việc công ty du lịch không tổ chức tour như dự kiến có khi lại là một may mắn, khi giá vé xe buýt tới Persepolis quá rẻ, tính ra chỉ khoảng 15 cent Mỹ. Có điều chuyến này khác xa những chuyến hành hương bằng lạc đà của người cổ đại, cũng không được một lời nói hay bảng hiệu chào mừng, mong gì đến kèn trống nhạc tấu như trong cổ tích.
Suốt buổi sáng chỉ có ba chúng tôi trong cả một di tích khổng lồ, phải đến giữa trưa mới thấy thêm vài nhóm du khách nội địa. Không người thuyết minh, không giấy tờ chỉ dẫn, chúng tôi hoàn toàn tự mình lang thang, nhẩn nha khám phá từng góc một, ngắm nghía những cổng vòm, cột đá, bậc thang, tường thành uy nghiêm một thời. Không thể tưởng tượng nổi một nơi đẹp đẽ dường ấy, dù chỉ qua những gì còn sót lại, đã bị bỏ hoang cả hai ngàn năm, không còn được sử dụng và có người sinh sống. Trong lần khảo sát vào đầu thế kỷ 20, hai bộ đĩa vàng và bạc ghi lại hình ảnh lễ hội từ thời cổ xưa của đế quốc Ba Tư đã được phát hiện dưới nền lớn của một đại khán phòng. Ngoài ra còn có nhiều bản chữ khắc trên đá của các triều đại Darius I, Xerxes I, và Artaxerxes III. Lời cầu nguyện nổi tiếng của Darius Đại đế – vị hoàng đế Ba Tư khét tiếng nhất, "cầu xin Đấng tối cao bảo vệ đất nước này trước kẻ thù, nạn đói, và mọi dối lừa", còn lưu lại nơi đây.
Phù điêu ở Persepolis
Lưng thành cổ Persepolis tiếp giáp với núi Mercy hùng vĩ, vẫn còn những lăng mộ được đục vào sườn núi với nhiều phù điêu chạm khắc còn rõ đường nét. Mặt tiền, một trong số đó chưa hoàn thiện, cũng được trang trí với đa dạng phù điêu. Đây là khu lăng mộ được cho là của những triều đại cuối cùng trị vì vương quốc Ba Tư trước khi đoàn quân của Alexander Đại đế vượt sa mạc qua đây khoảng 400 năm trước Công nguyên. Giờ thì chỉ cần một vài chuyến bay, nhưng không phải ai cũng muốn đến. Một cô bạn tôi, người đã đi không ít, bảo rằng có lẽ cô rất tiếc nhưng sẽ không định đến đây dù một lần trong đời. Cô thà từ bỏ cơ hội xem núi đá phủ bóng trên cát, và trên những ký ức tuôn chảy của nền văn minh Lưỡng Hà, mà vùng Tây Nam Iran này lưu giữ nhiều dấu tích nhất, chứ không muốn “coi thường mạng sống”. Nhiều người cũng như cô, nhất là phụ nữ, cảm thấy an ninh ở đây không đủ để liều mạng đến tận nơi chỉ để xem một phế tích.
Song với tôi và nhiều người khác, càng đi thì niềm tin vào sức sống của những vùng đất thuộc về phần đáng được ghi nhớ của lịch sử càng trở nên mạnh mẽ. Chúng tôi ra về với niềm hy vọng mong manh, rằng sẽ có một ngày Persepolis nhộn nhịp trở lại, giống như phiên chợ Ba Tư của nhạc sĩ Albert William Ketèlbey, dù cho đến nay Iran vẫn đang hầu như bị cô lập với thế giới. Không có xe buýt để về, chúng tôi phải gọi một chiếc taxi, giá cũng chỉ 3 đô la cho gần 8km chặng đường ra quốc lộ để đón xe buýt. Khi viết những dòng này, tôi được một người bạn thông báo rằng giá vé vào cửa Persepolis đã tăng 30 lần! Năm 2008 tôi chỉ phải trả có 5.000 rial (tương đương với 8.000VND) để vào cửa, nhưng năm nay giá vé là 150.000 rial (240.000VND). Không biết giá vé xe buýt và taxi bây giờ bao nhiêu, nhưng chỉ cầu mong Persepolis đã thật sự thức dậy cùng với mức giá tăng chóng mặt đó.
Tranh tượng Phật trong đền cổ ở Bagan
Bagan - mây bay trên những bóng chùa
Năm 2013 sẽ là năm của du lịch Myanmar, theo lời nhận xét và đánh giá của hầu hết các tạp chí du lịch hàng đầu thế giới. Khép lại gần hai thập kỷ mâu thuẫn nội bộ và đàn áp, Myanmar đang ở vào thời kỳ hòa giải và tiến tới dân chủ tự do, mở cửa nền kinh tế, dỡ bỏ hàng rào cấm vận từ các nước phương Tây, và đã chào đón tới hàng triệu du khách trong năm 2012. Nếu trước đây nước này từng phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ thực dân Anh, với những khu phố Tây sầm uất ở Yangon và dân cư đọc viết tiếng Anh thông thạo, thì những năm cấm vận đã dẫn tới tình trạng đói nghèo kéo dài và những đô thị xuống cấp. Các chuyến bay quốc tế vào Myanmar đều phải quá cảnh Bangkok. Đi lại trong nước vô cùng khó khăn, mất từ 8-10 tiếng cho một hành trình hơn 200km. Có lẽ sự thiếu tiện nghi di chuyển đã ngăn trở bước chân du khách đến một đất nước mang nhiều dấu ấn của văn minh Phật giáo và không xa lạ với văn minh phương Tây. Vì vậy rất ít người tìm đến thăm vùng chùa tháp Bagan, di tích đặc sắc này rất hiếm khi được các tài liệu thông tin du lịch nhắc tới. Một miền đất nữa có nguy cơ chìm vào quên lãng vì “ngăn sông cách chợ”.
Tuy nhiên khi tôi tới đây vào năm 2008, máy bay của hãng hàng không nội địa Air Bagan rời Yangon và hạ cánh xuống phi trường Bagan chỉ sau 40 phút. Từ trên cao đã có thể thấy được toàn cảnh cánh đồng chùa tháp “bất tận”, với hàng ngàn ngôi chùa vươn mình lên trời cao. Vùng đất rộng hơn 40 cây số vuông ở phía Nam Mandalay từng là biểu tượng của sự chuyển mình hoành tráng từ Phật giáo Đại thừa sang Phật giáo Theravada, đánh dấu sự phát triển rực rỡ một thời của nền Phật giáo Myanmar từ thế kỷ thứ 9 tới thế kỷ thứ 13, với hàng trăm đền chùa, tự viện. Những tòa tháp hầu hết bằng gỗ được xây dựng trong suốt hơn 200 năm hoàng kim của vương triều Pagan, kết thúc vào cuối thế kỷ 13. Cùng với sự suy tàn của vương triều này, trong ngàn năm tiếp theo, Bagan trở thành cánh đồng khô hạn thưa thớt dân cư, chỉ có những ngôi tháp lay lắt với thời gian, cùng nhiều thánh tích cũng dần hoang phế.
Cánh đồng tháp
Đi trên cánh đồng hoang tàn, tôi cảm thấy may mắn là chiến tranh chưa chạm tới đây. Đền Ananda bằng đá là một trong những ngôi đền rộng lớn nhất và được bảo quản tốt nhất, có kiến trúc theo hình thập tự với một khối lập phương bốn mặt tượng Phật ở trung tâm. Những đỉnh tháp nhọn vươn lên và vuốt thon búp măng được gọi là shikhara. Mặt tường phía ngoài có các bức tranh ghép bằng gạch men bóng pha màu, minh họa những cảnh trong cuốn "Bản sinh kinh". Đền Thatbyinnyu được xây dựng vào giữa thế kỷ 12 là ngôi đền cao nhất ở Bagan và có thể được nhìn thấy từ mọi điểm ở vùng này.
Đến Bagan còn là để xem cảnh mặt trời mọc và lặn. Từ 5 giờ sáng, những chiếc xe ngựa và xe bò kéo cùng ô tô xe máy đã đưa khách tới chân các ngôi đền, để khách có thể leo lên và nhìn ngắm toàn cảnh Bagan. Trong làn sương sớm hay ánh chiều tà, những ngọn tháp ẩn hiện theo từng lớp xa gần mang đến một không gian kỳ thú, đầy bí ẩn. Mặt trời như bồng bềnh trên lớp lớp tháp nhọn, nhác trông như những bóng người. Vùng đất đã từng ngủ yên trong suốt 800 năm nay trở thành điểm đến yêu thích của các nhiếp ảnh gia và du khách. Khách cũng có thể trả 90 đô la Mỹ để bay bổng trong khinh khí cầu trên bầu trời Bagan. Thấp thoáng đâu đó có những ngôi chùa được xây bằng gạch sơn ánh vàng chói lọi. Không ít những ngôi đền ở đây đã được dát phủ vàng nhiều lần.Tôi chắc rằng cùng với sự mở cửa về kinh tế, Bagan sẽ không còn bị lãng quên nữa, và giống như Angko Wat, sớm muộn cũng sẽ trở thành một di sản UNESCO tấp nập khách tham quan.
Cô hướng dẫn viên trước bản đồ khu lăng mộ vua Kongmin
Giấc ngàn thu không yên tĩnh ở Kaesong
Trong những ngày cả thế giới đang nhắc tới những căng thẳng tại Triều Tiên, khiến khu công nghiệp Kaesong trên vĩ tuyến 38 Liên Triều phải đóng cửa, tôi bỗng nhớ tới khu lăng mộ vua Kongmin, nằm không xa thành phố biên giới đang nóng bỏng này. Trong chuyến đi tới đất nước bí ẩn CHDCND Triều Tiên cũng vào năm 2008, tôi đã có một đêm ở Kaesong, nằm trong một khu nghỉ dưỡng biệt lập với bên ngoài, có kiến trúc Triều Tiên truyền thống bằng gỗ. Sáng hôm sau xe dành riêng cho khách nước ngoài đưa chúng tôi tới tham quan khu lăng mộ được xây dựng từ thế kỷ 14, một trong những lăng mộ Hoàng gia của triều đại Koryo (Cao Ly). Du khách nước ngoài chưa được tự do đến đây trừ khi được xe của nhà nước đưa đi. Những kỳ công để phục hồi khu lăng mộ này vì thế ít được biết tới. Nếu được tự do viếng thăm như những lăng tẩm ở Huế, thì di tích này chắc chắn nổi bật không kém.
Khu lăng mộ bao gồm hai gò chôn cất riêng biệt - Hyonrung, có chứa hài cốt của Kongmin, vị vua thứ 31 của triều đại Koryo, và Jongrung, chôn hoàng hậu Noguk, vốn là công chúa Mông Cổ. Trong điều kiện kinh tế vô cùng khó khăn, cặp lăng mộ này vẫn được bảo tồn kỹ lưỡng và là một nơi trang trọng nhất ở Triều Tiên. Có khá nhiều người dân Triều Tiên tới đây tham quan, nhưng khách nước ngoài thì rất ít. Tôi hỏi cô hướng dẫn viên thì được biết cả tháng chỉ có vài đoàn, chủ yếu là các chuyên gia đến nghiên cứu.
Sân của khu lăng mộ vua Kongmin
Công cuộc xây dựng khu lăng mộ bắt đầu sau cái chết của hoàng hậu Noguk vào năm 1365, và được hoàn thành vào bảy năm sau, 1372. Khu mộ với những tác phẩm điêu khắc nằm trên một ngọn đồi nhỏ, bao quanh bởi bức phù điêu khảm hình cừu và hổ. Những con hổ đại diện cho sức mạnh và sự hung tợn (dương) trong khi những con cừu đại diện cho sự dịu dàng (âm). Xếp hàng dọc theo "Con đường tinh thần" đến khu mộ là những bức tượng của các quan văn võ. Nhiều nhà chiêm tinh và phong thủy đã tham gia góp ý và sắp đặt cho quần thể này. Tương truyền rằng khi hoàng hậu qua đời, vua sai các thầy phong thủy tìm một địa điểm hoàn hảo để xây lăng mộ cho cả hai người. Không hài lòng với nhiều phương án của các thầy phong thủy, vua ra lệnh nếu ai tìm được vị trí phù hợp sẽ được chu cấp mọi thứ không thiếu điều gì, nhưng ngược lại sẽ bị chém đầu ngay lập tức.
Một ngày, có thầy phong thủy trẻ trình vua xem xét một vị trí bên ngoài thành Kaesong. Trước khi đi xem, Kongmin bí mật bảo lính cận vệ rằng nếu ông vẫy khăn tay thì họ cần xử trảm ngay nhà phong thủy. Đến nơi, vua trèo lên một ngọn đồi đối diện để xem xét. Sau khi khảo sát kỹ lưỡng xung quanh, vui sướng và hài lòng, vua quyết định sẽ cho xây lăng mộ ngay và muốn xuống núi để chúc mừng thầy phong thủy trẻ. Song chàng đã bị chém, vì khi nhìn thấy vua lấy khăn lau trán, lính cận vệ nghĩ rằng ngài ra ám hiệu như đã căn dặn. Nhà vua đau buồn thốt lên: "Ồ, thôi!", và tỏ lòng thương tiếc bằng cách đặt tên thầy phong thủy cho ngọn núi này.
Thật không may, vào năm 1905, các ngôi mộ đã bị người Nhật khai quật bằng thuốc nổ. Hầu hết các di vật bên trong được cho là đã bị đưa đến Nhật Bản, mặc dù ngày nay quan tài Kongmin vẫn đang được trưng bày tại Bảo tàng Koryo trong khu công nghiệp Kaesong. Khu lăng mộ đã được UNESCO đưa vào danh sách Di sản Văn hóa ngày 23/6 vừa qua, tuy hai nấm mồ chỉ là phiên bản. Hi vọng sau những căng thẳng hiện nay, khu lăng mộ đã sống sót qua nhiều biến cố sẽ đón nhiều khách du lịch hơn, và không chìm vào quên lãng.
Những viên gạch men lát nền được bảo tồn và gắn lên tường ở Sao Luis
Khóc ở Sao Luis
Câu chuyện ở Sao Luis được nhớ lại khi có tin về những cuộc biểu tình mới đây ở Brazil. Một bộ phận không nhỏ người dân nước này phẫn nộ trước số tiền khổng lồ hơn 13 tỉ đô la Mỹ đang được chi vào việc xây dựng các sân vận động cho World Cup 2014. Họ cho rằng số tiền này, cùng với một khoản cũng khổng lồ không kém để bảo trì các sân này, hầu hết là tiền thuế của dân Brazil và đáng ra phải được dùng vào việc cải tạo các khu ổ chuột và cải thiện đời sống người nghèo ở đây. Lời giải thích của ông chủ tịch FIFA, rằng “chúng tôi không thể biến đổi thế giới nhưng chúng tôi có thể làm cho nó tốt đẹp hơn” bằng một sự kiện thể thao lớn của hành tinh vì sự kiện này sẽ có giá trị khích lệ và nâng đỡ tinh thần nhiều người, có vẻ không thuyết phục đối với dân chúng địa phương. Thử hình dung xem, nếu ông chủ tịch khôn ngoan hơn và giải thích rằng những công trình của World Cup 2014 thuộc về lịch sử, và một ngày nào đó sẽ trở thành di sản, thì may ra khiến dân chúng mủi lòng hơn chăng? Không chắc lắm, vì cuộc xung đột giữa giá trị vật chất và tinh thần, giữa những lợi ích trước mắt và lâu dài, giữa những vẻ đẹp cố hữu và mới mẻ sẽ luôn luôn tồn tại, và ảnh hưởng sâu sắc trên kho tàng văn hóa thế giới. Riêng tôi thì nhớ những giọt nước mắt đã rơi ở Sao Luis.
Khu phố cổ ở Sao Luis
Một sáng Chủ nhật mùa hè Nam Mỹ, trời lúc mưa lúc nắng, thành phố di sản nổi tiếng nhất Brazil mang đậm nét thuộc địa Bồ Đào Nha có lẽ vì thế mà vắng vẻ. 9 giờ sáng các bảo tàng mới mở cửa. Tôi lang thang trong khu phố cổ, lặng người trước những khung nhà mang vẻ dầu dãi, và nghẹn ngào khi đứng trước những viên gạch lát azulejo được xếp đặt ngay ngắn trên tường tại Festa Casa. Những viên gạch trăm năm tuổi thật quen thuộc. Viên trắng, viên xanh, viên đen; viên hoa văn vuông vắn, viên một màu. Tất cả đều có phần cũ kỹ và sứt mẻ. Tự nhiên thấy nghẹn ngào, và nước mắt đã rơi. Có lẽ thấy lạ, anh bạn người Pháp tên Paul lặng im và ngước mắt nhìn. “Cách đây vài năm, nhà tôi ở khu phố cổ Hà Nội cũng lát bằng những viên gạch như thế này”, tôi bảo Paul, “Bốn thế hệ đã bước chân trên đó, tuổi thơ của tôi gắn với những buổi lăn lê bò toài trên nền gạch, những sáng Chủ nhật hàng tuần cố lau sàn cho thật sạch bóng. Cái lavabô này nữa, nhà tôi trước đây cũng có một cái gần giống thế này. Từ lúc tôi còn bé nước đã không chảy được tới vòi, ông nội tôi vẫn xách một xô nước để gần đó, kèm theo một cái gáo múc. Lớn lên tôi giúp ông xách xô nước để đúng vào nơi đáng ra nước sẽ chảy vào. Tất cả giờ đều không còn.”
Hẻm nhỏ ở Sao Luis - cuộc sống vẫn bình lặng bên những di sản cổ xưa
“Tại sao vậy, tại sao nhà anh không giữ nó?!”
“Tôi không có quyền, nhà tôi được sửa chữa lại, những gì như cũ chỉ còn là mặt tiền. Tôi không có quyền. Tôi lớn lên với cảm giác mọi thứ chung quanh đều thay đổi vì những cố gắng tạo dấu ấn thời cuộc bằng cách phá đi những gì được người xưa để lại, dưới hình thức sửa chữa phát triển. Sửa chữa phát triển trước tiên là vứt bỏ và phá dỡ.”
“Tại anh thôi, anh có thể giữ mà không giữ, dù nhà anh có được sửa chữa!”
“Đúng, tại tôi, lúc đó tôi tránh không ở nhà!”
Paul quay sang nói gì đó với cô gái hướng dẫn viên. Lặng im một lúc và cô nói tiếp bằng tiếng Bồ. Paul chịu khó phiên dịch hết sang tiếng Anh cho nghe. Lịch sử và sự phát triển của những đồ dùng bằng sứ azulejo từ Bồ Đào Nha lan sang Pháp, Đức rồi vượt biển tới đây. Không nghe thấy gì nhiều, chìm đắm trong những ký ức cũ, bước chân hờ hững lên gác theo chiếc cầu thang gỗ. Cô gái mở cửa sổ, ánh sáng tràn vào qua khung cửa, chợt nhìn thấy tự khi nào… mắt Paul cũng đỏ hoe. Hình như những ký ức yên ngủ của riêng anh cũng đang bừng thức dậy.
Tại sao nhỉ, tại sao người Việt chúng ta luôn phá bỏ những gì được để lại? Sếp mới lên sẽ phải thay xe mới, đổi hết đồ dùng nội thất, nhiều lúc phải thay khung cửa cho hợp tuổi, xây dựng lại trụ sở, mở cửa theo hướng mới. Chiếc bàn bầu dục ở Nhà Trắng đã qua bao đời tổng thống, thay vì được thay đổi nhiều lần, vẫn được giữ lại để mỗi khi nhìn vào, người ta đều biết rằng bao nhiêu quyết định đã được đề ra bởi bao nhiêu tổng thống Hoa Kỳ khi sử dụng chiếc bàn này. Không chỉ chiếc bàn bầu dục, còn nhiều vật dụng khác, nhiều ngôi nhà khác đang được tôn trọng và trở thành di sản văn hóa. Nếu hôm nay biết tôn trọng những gì thuộc về quá khứ, thì ngày mai mới có người kế thừa và tôn trọng hôm nay. Song những cuộc biểu tình ở Brazil cũng có vẻ có lí lắm chứ. Khi cơm ăn áo mặc, và nhất là nhà ở còn chưa đủ, thì làm sao có thể chi dùng vào những việc xa xỉ như giữ bức tường này, giữ mảnh sân kia chỉ để ngắm nhìn? Liệu có thể có cách nào thông minh hơn để dung hòa những giá trị vật chất và tinh thần vốn ít tương đồng ấy?
Toàn cảnh nhà ga Đà Lạt
Vĩ thanh – một chiều mưa ở Đà Lạt
Tháng 5 năm 2013. Sau chặng đường dài 130km, vừa tới cửa ngõ Đà Lạt thì trời đổ mưa lớn. Qua màn nước dày đặc, nhà ga xinh xắn sơn vàng rực rỡ hiện ra với ba mái chóp vẫn nổi bật; nhác trông thì gần giống nhà ga Deauville bên Pháp, song có thể là sự mô phỏng hình nóc nhà rông hay núi Langbiang. Một tấm bảng nhỏ đề danh hiệu Di tích lịch sử văn hóa quốc gia gắn ngay cửa lớn. Nhà ga từng là đầu mối của tuyến đường sắt Phan Rang – Đà Lạt nay chỉ còn đón mươi mười lăm khách cho một chuyến tham quan Đà Lạt – Trại Mát, và mỗi ngày có chừng bốn chuyến như vậy. Tuy đường ray có thanh giữa răng cưa giúp tàu lên dốc như những tuyến đường sắt Thụy Sĩ không còn, nhưng sân ga còn lưu giữ một toa tàu cũ đậu trên cỏ dại, phòng chờ với những ghế nệm êm rộng rất cổ và kiểu cách, tường sát trần khảm kính màu tinh xảo vẫn hầu như nguyên vẹn. Lại nhớ ga Hàng Cỏ. Nếu không bị ném bom thì có thể một góc thân thương của Hà nội xưa ấy vẫn còn. Nhưng tại sao khi xây dựng lại người ta không chú ý đến kiến trúc cũ? Hay kiến trúc cũ chỉ có giá trị bảo tàng và chỉ được gìn giữ nếu không có những cuộc phá đi xây lại? Vậy thì tương lai của ga Đà Lạt sẽ ra sao? Sẽ không như ga Hàng Cỏ chứ, không còn hình hài cũ hoặc thậm chí biến mất hẳn? Sẽ khác buổi chiều vắng vẻ hôm nay, mà tấp nập khách tham quan? Có lẽ nên hi vọng!
Toa tàu mới dành cho khách du lịch ở ga Đà Lạt
- Quý khách tham khảo thêm các chuyên mục khác của X HOME:
CHIA SẺ & BÌNH LUẬN
Tweet