Phân định quyền sở hữu nhà hợp nhất
Hỏi: Năm 1982, cha và chú ruột tôi mua 2 căn nhà liền kề. Nhà của cha tôi chưa có sổ hồng, còn nhà chú tôi đã có sổ hồng. Sau đó, chú và cha tôi đã tháo bức tường ngăn cách của 2 nhà để sống chung.
Năm 1995, cha và chú tôi sáp nhập 2 căn nhà lại một. Năm 2009, cha tôi qua đời, đến năm 2011 chú tôi cũng qua đời. Hiện nay, căn nhà chung vẫn chưa có sổ hồng. Xin hỏi, tình trạng pháp lý căn nhà hiện nay ra sao? Nếu có tranh chấp tôi phải làm gì?
Phan Trường Thi (Gò Vấp, Tp.HCM)
Trả lời
Khoản 1, Điều 9, Luật Nhà ở quy định: “Chủ sở hữu nhà ở là tổ chức, cá nhân tạo lập hợp pháp nhà ở; trường hợp chủ sở hữu nhà ở có yêu cầu, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với nhà ở của họ”. Khoản 1, Điều 13, Luật Nhà ở, quy định: “Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở là cơ sở pháp lý để chủ sở hữu nhà ở thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình đối với nhà ở theo quy định của pháp luật”. Theo đó, người chú của bạn đã được cấp giấy chủ quyền đối với căn nhà do mình tạo lập hợp pháp nên ông ấy được công nhận là chủ sở hữu nhà. Khi người chú qua đời, căn nhà là di sản thừa kế thuộc về những người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật. Việc thỏa thuận miệng “sáp nhập 2 căn nhà làm 1” không có giá trị pháp lý để từ đó phủ nhận quyền sở hữu nhà của người chú. Trường hợp có phát sinh tranh chấp về quyền sở hữu căn nhà của người chú mà không thể thương lượng được các bên có thể khởi kiện ra TAND cấp huyện, nơi có căn nhà.
Luật gia Nguyễn Văn Khôi
- Quý khách tham khảo thêm các chuyên mục khác của X HOME:
CHIA SẺ & BÌNH LUẬN
Tweet