Ngành thép lao đao vì phá quy hoạch
Mặc dù các bộ, ngành, hiệp hội liên tiếp cảnh báo về dư thừa công suất, nhưng các dự án sản xuất thép vẫn “mọc lên như nấm” ở các địa phương. Điều này không chỉ phá vỡ quy hoạch ngành mà còn khiến công nghiệp thép rơi vào khủng hoảng thừa như hiện nay.
Doanh nghiệp lâm vào cảnh khốn đốn, còn các cơ quan quản lý thì vẫn đang loay hoay với bài toán cung cầu.
Giải thích điều này, ông Nghi cho biết: do được phân cấp, địa phương nào cũng nôn nóng thu hút đầu tư, không lường hết khó khăn và dễ dàng chấp nhận các dự án dẫn đến phá vỡ cân đối về số lượng và chủng loại sản phẩm thép. Không chỉ vậy, các địa phương còn không chọn lọc kỹ đối tác về tiềm lực tài chính, về công nghệ nên khi có những biến động kinh tế thì đối tác thường kéo dài tiến độ, thậm chí là dừng việc thực hiện dự án. Đã có một số dự án phải thu hồi giấy phép vì đối tác không có khả năng thực hiện, một số dự án thực hiện được thì sử dụng công nghệ lạc hậu, biến Việt Nam thành nơi tập kết của những nhà máy sản xuất tiêu tốn năng lượng và gây ô nhiễm nặng, vốn đang bị nhiều quốc gia khác tìm cách loại bỏ.
Ông Nguyễn Tiến Nghi cho biết, hiện nay cả nước có hơn 400 doanh nghiệp thép các loại, trong đó có gần 120 doanh nghiệp làm thép xây dựng, nhưng chỉ có 26 doanh nghiệp nằm trong quy hoạch. Dự kiến, cả năm 2012 công suất sản xuất lên đến 9 triệu tấn (chưa kể 5 nhà máy công suất 1,5 triệu tấn sắp đi vào hoạt động), trong khi tiêu thụ cả nước chỉ đạt gần 6 triệu tấn/năm. Dư thừa công suất, trong khi kinh tế khó khăn như hiện nay, thị trường bất động sản – một trong những hộ tiêu thụ thép lớn nhất - cho đến nay vẫn chưa có dấu hiệu phục hồi, đầu tư công và dân dụng cũng giảm mạnh khiến lượng thép tồn kho ngày càng lớn, nhiều doanh nghiệp thép phải sản xuất cầm chừng để tồn tại, thậm chí là phá sản. Trong khi đó, với việc hội nhập quốc tế sâu, hàng rào thuế quan của Việt Nam phải giảm dần theo lộ trình cam kết WTO và AFTA (Khu vực tự do mậu dịch ASEAN), thép nhập khẩu từ Trung Quốc và các nước trong khu vực ASEAN với ưu thế giá rẻ sẽ càng tạo thêm áp lực cạnh tranh đối với các doanh nghiệp thép trong nước.
Vài năm gần đây, nhiều doanh nghiệp đã tính chuyện đẩy mạnh xuất khẩu để giảm tồn kho. Thế nhưng, hướng đi này cũng không mấy thuận lợi khi kinh tế thế giới chưa hết khó khăn cùng với những rào cản thương mại của nước sở tại, các vấn đề liên quan đến chống bán phá giá. Nhìn vào con số xuất khẩu 2 triệu tấn thép các loại của năm 2011 có thể thấy Việt Nam thu về gần 2 tỷ USD, tăng hơn 56% so với năm 2010, nhưng lợi nhuận so với các ngành khác không là bao. Ngoài ra, hoạt động xuất khẩu thép còn phải đối mặt không ít khó khăn, trong đó có 3 vụ kiện chống bán ở Mỹ và Inđônêxia. Vấn đề này đến nay các cơ quan chức năng và doanh nghiệp xuất khẩu vẫn còn đang vất vả đối phó.
Tuy nhiên, để hạn chế ở mức thấp nhất việc bị kiện trong tương lai, các doanh nghiệp xuất khẩu thép trong nước cần phải tìm hiểu kỹ, nắm rõ luật lệ và quy định của các nước sở tại mới có thể đẩy mạnh được xuất khẩu. Đồng thời, tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác thông tin, dự báo thị trường, kịp thời thông báo, tuyên truyền nâng cao nhận thức của các nhà sản xuất, xuất khẩu về các loại rào cản của các nước nhập khẩu nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, cải thiện chất lượng hàng hóa, tránh rủi ro cho doanh nghiệp khi thực hiện các hợp đồng xuất khẩu.
Bộ Công Thương đã chỉ đạo Thương vụ Việt Nam ở các nước tiếp tục làm cầu nối giữa doanh thép trong nước và doanh nghiệp nước ngoài, cung cấp và tư vấn cho doanh nghiệp trong nước thực hiện các chương trình xúc tiến thương mại, đẩy nhanh sự hợp tác, giảm thiểu rủi ro trong giao dịch. Ngoài ra, Bộ Công Thương cũng đề nghị các địa phương chỉ đạo, rà soát và quản lý chặt chẽ việc cấp giấy chứng nhận đầu tư các dự án thép tại địa phương mình. Đồng thời rà soát và thu hồi giấy chứng nhận đầu tư của các dự án không đủ điều kiện triển khai, tránh cấp phép tràn lan gây nên tình trạng dư thừa công suất đối với các sản phẩm thép.
Trước những khó khăn và thách thức hiện nay, ngành thép cũng giống như các ngành sản xuất khác cần phải cơ cấu lại trước khi quá muộn. Những doanh nghiệp thép không còn đủ sức cạnh tranh vì công nghệ và thiết bị lạc hậu, tiêu hao nguyên liệu và năng lượng lớn, giá thành cao sẽ buộc phải dừng sản xuất hoặc bán lại cơ sở sản xuất cho các nhà đầu tư có tiềm năng để đầu tư đổi mới công nghệ, bảo đảm sản xuất có hiệu quả.
Theo nhiều chuyên gia, lâu nay các doanh nghiệp thường nhắm đến thị trường dự án, thị trường lớn nhưng không đạt được kỳ vọng, thì một số doanh nghiệp khác lại tiếp thị, hướng đến thị trường ngách, thị trường dân dụng và đã rất thành công, để mỗi nhà máy chạy 100% công suất thiết kế, các doanh nghiệp nên có sự bù đắp thị trường lẫn nhau trong tình hình khó khăn như hiện nay. Đây là việc làm mà các doanh nghiệp khác cũng nên tham khảo để tiêu thụ sản phẩm của mình trong bối cảnh ảm đạm như hiện nay.
"Cái chết” đã báo trước
Theo Phó Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA) Nguyễn Tiến Nghi, năm 2007, chỉ một năm sau khi Chính phủ phê duyệt "Quy hoạch phát triển ngành thép Việt Nam giai đoạn 2007 - 2015", VSA đã có hàng loạt công văn gửi Chính phủ, Bộ Công Thương nêu ra tình trạng đầu tư tràn lan, chạy theo "phong trào" trong ở các địa phương. Vì nôn nóng thu hút đầu tư, thay vì xin ý kiến của Thủ tướng Chính phủ và Bộ Công Thương, nhà đầu tư cùng địa phương chia đôi dự án để dễ dàng được đầu tư. Chính điều này khiến cho “cơn sốt” sản xuất thép xây dựng bùng lên ở nhiều địa phương, đẩy ngành thép thép lâm vào cảnh bĩ cực như hiện nay. Trong khi đó, nhu cầu thép cán nóng, thép chế tạo, thép không gỉ… rất lớn thì lại không có doanh nghiệp nào đầu tư sản xuất.Ảnh minh họa. (Nguồn: Internet) |
Giải thích điều này, ông Nghi cho biết: do được phân cấp, địa phương nào cũng nôn nóng thu hút đầu tư, không lường hết khó khăn và dễ dàng chấp nhận các dự án dẫn đến phá vỡ cân đối về số lượng và chủng loại sản phẩm thép. Không chỉ vậy, các địa phương còn không chọn lọc kỹ đối tác về tiềm lực tài chính, về công nghệ nên khi có những biến động kinh tế thì đối tác thường kéo dài tiến độ, thậm chí là dừng việc thực hiện dự án. Đã có một số dự án phải thu hồi giấy phép vì đối tác không có khả năng thực hiện, một số dự án thực hiện được thì sử dụng công nghệ lạc hậu, biến Việt Nam thành nơi tập kết của những nhà máy sản xuất tiêu tốn năng lượng và gây ô nhiễm nặng, vốn đang bị nhiều quốc gia khác tìm cách loại bỏ.
Ông Nguyễn Tiến Nghi cho biết, hiện nay cả nước có hơn 400 doanh nghiệp thép các loại, trong đó có gần 120 doanh nghiệp làm thép xây dựng, nhưng chỉ có 26 doanh nghiệp nằm trong quy hoạch. Dự kiến, cả năm 2012 công suất sản xuất lên đến 9 triệu tấn (chưa kể 5 nhà máy công suất 1,5 triệu tấn sắp đi vào hoạt động), trong khi tiêu thụ cả nước chỉ đạt gần 6 triệu tấn/năm. Dư thừa công suất, trong khi kinh tế khó khăn như hiện nay, thị trường bất động sản – một trong những hộ tiêu thụ thép lớn nhất - cho đến nay vẫn chưa có dấu hiệu phục hồi, đầu tư công và dân dụng cũng giảm mạnh khiến lượng thép tồn kho ngày càng lớn, nhiều doanh nghiệp thép phải sản xuất cầm chừng để tồn tại, thậm chí là phá sản. Trong khi đó, với việc hội nhập quốc tế sâu, hàng rào thuế quan của Việt Nam phải giảm dần theo lộ trình cam kết WTO và AFTA (Khu vực tự do mậu dịch ASEAN), thép nhập khẩu từ Trung Quốc và các nước trong khu vực ASEAN với ưu thế giá rẻ sẽ càng tạo thêm áp lực cạnh tranh đối với các doanh nghiệp thép trong nước.
Vài năm gần đây, nhiều doanh nghiệp đã tính chuyện đẩy mạnh xuất khẩu để giảm tồn kho. Thế nhưng, hướng đi này cũng không mấy thuận lợi khi kinh tế thế giới chưa hết khó khăn cùng với những rào cản thương mại của nước sở tại, các vấn đề liên quan đến chống bán phá giá. Nhìn vào con số xuất khẩu 2 triệu tấn thép các loại của năm 2011 có thể thấy Việt Nam thu về gần 2 tỷ USD, tăng hơn 56% so với năm 2010, nhưng lợi nhuận so với các ngành khác không là bao. Ngoài ra, hoạt động xuất khẩu thép còn phải đối mặt không ít khó khăn, trong đó có 3 vụ kiện chống bán ở Mỹ và Inđônêxia. Vấn đề này đến nay các cơ quan chức năng và doanh nghiệp xuất khẩu vẫn còn đang vất vả đối phó.
Cơ cấu lại trước khi quá muộn
Bộ Công Thương nhận định, năm 2012, ngành thép cũng như nhiều ngành khác vẫn chưa thoát khỏi khó khăn. Để tiêu thụ được sản phẩm trong bối cảnh hiện nay, các doanh nghiệp phải đầu tư nghiên cứu, xây dựng kế hoạch đổi mới công nghệ sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh, giảm giá thành cũng như tích cực tìm kiếm thị trường xuất khẩu tiềm năng trong khu vực và trên thế giới.Tuy nhiên, để hạn chế ở mức thấp nhất việc bị kiện trong tương lai, các doanh nghiệp xuất khẩu thép trong nước cần phải tìm hiểu kỹ, nắm rõ luật lệ và quy định của các nước sở tại mới có thể đẩy mạnh được xuất khẩu. Đồng thời, tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác thông tin, dự báo thị trường, kịp thời thông báo, tuyên truyền nâng cao nhận thức của các nhà sản xuất, xuất khẩu về các loại rào cản của các nước nhập khẩu nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, cải thiện chất lượng hàng hóa, tránh rủi ro cho doanh nghiệp khi thực hiện các hợp đồng xuất khẩu.
Bộ Công Thương đã chỉ đạo Thương vụ Việt Nam ở các nước tiếp tục làm cầu nối giữa doanh thép trong nước và doanh nghiệp nước ngoài, cung cấp và tư vấn cho doanh nghiệp trong nước thực hiện các chương trình xúc tiến thương mại, đẩy nhanh sự hợp tác, giảm thiểu rủi ro trong giao dịch. Ngoài ra, Bộ Công Thương cũng đề nghị các địa phương chỉ đạo, rà soát và quản lý chặt chẽ việc cấp giấy chứng nhận đầu tư các dự án thép tại địa phương mình. Đồng thời rà soát và thu hồi giấy chứng nhận đầu tư của các dự án không đủ điều kiện triển khai, tránh cấp phép tràn lan gây nên tình trạng dư thừa công suất đối với các sản phẩm thép.
Trước những khó khăn và thách thức hiện nay, ngành thép cũng giống như các ngành sản xuất khác cần phải cơ cấu lại trước khi quá muộn. Những doanh nghiệp thép không còn đủ sức cạnh tranh vì công nghệ và thiết bị lạc hậu, tiêu hao nguyên liệu và năng lượng lớn, giá thành cao sẽ buộc phải dừng sản xuất hoặc bán lại cơ sở sản xuất cho các nhà đầu tư có tiềm năng để đầu tư đổi mới công nghệ, bảo đảm sản xuất có hiệu quả.
Theo nhiều chuyên gia, lâu nay các doanh nghiệp thường nhắm đến thị trường dự án, thị trường lớn nhưng không đạt được kỳ vọng, thì một số doanh nghiệp khác lại tiếp thị, hướng đến thị trường ngách, thị trường dân dụng và đã rất thành công, để mỗi nhà máy chạy 100% công suất thiết kế, các doanh nghiệp nên có sự bù đắp thị trường lẫn nhau trong tình hình khó khăn như hiện nay. Đây là việc làm mà các doanh nghiệp khác cũng nên tham khảo để tiêu thụ sản phẩm của mình trong bối cảnh ảm đạm như hiện nay.
(Theo Tamnhin.net)
- Quý khách tham khảo thêm các chuyên mục khác của X HOME:
CHIA SẺ & BÌNH LUẬN
Tweet