Giải quyết hồ sơ tranh chấp nhà đất
Tôi có mua một miếng đất ở huyện Bình Chánh (TP.HCM). Khi nghe thông tin miếng đất đó nằm trong quy hoạch cây xanh mạng lưới điện quốc gia thì tôi đã trả xong tiền, vì không muốn mua nữa nên tôi yêu cầu trả lại tiền và dẫn đến việc tranh chấp.
Tòa án huyện Bình chánh có mở phiên tòa xét xử sơ thẩm bản án số 04-TA ngày 11/2/2009, phía bên bán kháng cáo lên TAND thành phố vào ngày 24/2/2009 nhưng đến nay hồ sơ của tôi chưa chuyển đi. Tôi muốn hỏi kể từ ngày kháng cáo, hồ sơ chuyển đi trong vòng bao lâu và làm cách nào để hồ sơ của tôi được chuyển sớm?
Trả lời:
Theo thư trình bày, câu hỏi của ông/bà liên quan đến thời hạn gửi hồ sơ vụ án của tòa án cấp sơ thẩm cho tòa án cấp phúc thẩm.
Căn cứ Điều 255 Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) quy định, tòa án cấp sơ thẩm phải gửi hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị và tài liệu chứng cứ kèm theo (gọi tắt là hồ sơ vụ án) cho tòa án cấp phúc thẩm trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày:
1. Hết hạn kháng cáo, kháng nghị, nếu người kháng cáo không phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm.
2. Người kháng cáo nộp cho tòa án cấp sơ thẩm biên lai nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm.
Căn cứ Điều 245 và Điều 252 BLTTDS quy định về thời hạn kháng cáo, kháng nghị đối với bản án của tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự không có mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết. Đối với viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 30 ngày, kể từ ngày tuyên án. Trường hợp kiểm sát viên không tham gia phiên tòa thì thời hạn kháng nghị được tính từ ngày viện kiểm sát cùng cấp nhận được bản án.
Căn cứ tiểu mục 9.3, mục 9, phần I Nghị quyết 05/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao, theo đó, nếu có nhiều người kháng cáo và những người này đều phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm thì trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày người cuối cùng nộp biên lai tạm ứng án phí phúc thẩm cho tòa án cấp sơ thẩm, thì tòa án cấp sơ thẩm phải gửi hồ sơ vụ án cho tòa án cấp phúc thẩm.
Như vậy, có ba trường hợp khác nhau khi tính thời điểm bắt đầu thời hạn năm ngày làm việc:
- Trường hợp I:
Người kháng cáo chỉ là một người và không phải nộp tiền tạm ứng án phí, thì thời hạn năm ngày làm việc được tính kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị. Thời hạn kháng cáo, kháng nghị là 15 ngày theo quy định tại Điều 245 và Điều 252 BLTTDS.
- Trường hợp II:
Người kháng cáo chỉ là một người và phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, thì thời hạn năm ngày làm việc được tính kể từ ngày người kháng cáo nộp biên lai nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm cho tòa án cấp sơ thẩm.
- Trường hợp III:
Người kháng cáo gồm nhiều người và phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm thì thời hạn năm ngày làm việc được tính kể từ ngày người cuối cùng nộp biên lai tạm ứng án phí phúc thẩm cho tòa án cấp sơ thẩm.
Trong thực tế, để có thể xác định được các loại thời điểm nêu trên, ông/bà cần liên hệ với thẩm phán đã xét xử vụ án để xác định vụ kiện của ông/bà thuộc trường hợp kháng cáo nào trong ba trường hợp nêu trên. Từ đó, ông/bà mới có căn cứ xác định thời điểm bắt đầu tính thời hạn năm ngày làm việc để tòa án cấp sơ thẩm phải gửi hồ sơ vụ án cho tòa án cấp phúc thẩm.
Sau khi đã xác định được vụ án của ông/bà thuộc một trong ba trường hợp nêu trên, nếu quá thời hạn năm ngày làm việc mà tòa án không chuyển hồ sơ vụ án cho tòa án cấp phúc thẩm, thì ông/bà có thể gặp thẩm phán đã xét xử vụ kiện để nhắc nhở. (Đây là giải pháp tùy nghi theo kinh nghiệm của luật sư, BLTTDS không có điều khoản nào quy định trình tự, thủ tục cụ thể giải quyết trong trường hợp tòa án cấp sơ thẩm giao hồ sơ vụ án trễ hạn cho tòa án cấp phúc thẩm).
Do đó, sau khi qua trao đổi, nhắc nhở thẩm phán xét xử vụ án mà hồ sơ vụ án của ông/bà không được chuyển cho tòa án cấp phúc thẩm đúng thời hạn luật định, thì ông/bà có thể khiếu nại đến chánh án tòa án nhân dân nơi đã xét xử sơ thẩm về hành vi tố tụng dân sự của người tiến hành tố tụng dân sự khi có căn cứ cho rằng hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo Điều 391 BLTTDS.
Thời hiệu khiếu nại là 15 ngày, kể từ ngày người khiếu nại nhận được hoặc biết được quyết định, hành vi tố tụng mà người đó cho rằng có vi phạm pháp luật. Trong trường hợp có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà người khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hạn quy định tại điều này, thì thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan đó không tính vào thời hiệu khiếu nại (Điều 394 BLTTDS).
Theo Tuoi Tre
- Quý khách tham khảo thêm các chuyên mục khác của X HOME:
CHIA SẺ & BÌNH LUẬN
Tweet